DN nội số mệnh ít vươn lên nhờ có “gốc”, còn lại lặn ngụp trong ao làng, chia nhau “miếng nhỏ”.
Ngoại khống chế
Theo các DN TACN, việc danh thiếp DN FDI thống lĩnh thị phần TACN trong nước, sẽ dẫn đến hệ lụy xấu, ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi trong nước. Ông Phạm Đức Bình, Chủ viên tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Cty CP Thanh Bình cho hay, tình trạng thống lĩnh trên sẽ dẫn đến giá như thành sản phẩm cao.
“Giá gà, heo tốt thì người nuôi không lỗ, nhưng xuống là lỗ ngay. Người chăn nuôi ở khu vực phía Nam nhiều người đã tự trộn thức ăn. Thời gian tới, xu hướng người chăn nuôi chuyên nghiệp gia tộc sẽ không mua cám nữa, gia tộc tự trộn lấy, giống như cơm nhà như cơm tiệm. Muốn ăn cơm rẻ, an toàn thì tự làm lấy chứ, cơm tiệm mãi chịu sao nổi. Đây cũng là áp lực với danh thiếp DN cám trong nước cũng DN ngoại”, ông nói.
Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cảnh báo về hệ thống nuôi gia công, bắt nguồn từ mô hình của các DN FDI vận dụng ở nước ta.
Theo ông, chăn nuôi lợn, nếu tính đúng quy định về vệ sinh môi trường, vấn đề xử lý nước thải thì phải chiếm đến 10%. “Người dân nuôi phải tự xây dựng chuồng trại, và tự chịu về môi trường. Các công ty không phải chịu chi phí này vậy thành ra họ đã lãi được số phận đồng cân lớn”- ông Chinh nói.
Lãnh đạo Cục Chăn nuôi cho hay, nuôi gia công lợn, đáng lo hơn nhiều so với gà. Ngoài vốn lại được vay với lãi suất thấp, gia tộc còn không mất phí tổn về bao bì. Chẳng hạn, Cty CP ký hiệp đồng gia công với người dân nuôi 2.000 con lợn.
Hàng tháng, họ chở cám bằng xe bồn xuống đổ thẳng cho người dân, không cần bao bì. Khi cơ quan công năng hỏi đến thì trả lời, đây là mô hình gia công của tôi. Thậm chí với thuốc kháng đâm ra mới đưa xuống cho trại tiêm, không cho cơ quan quản lý biết.
Còn ông Lê Quang Thành, Chủ viên tịch HĐQT, Tổng giám đốc Cty CP TACN Thái Dương cảnh báo, lo nhất là Trung Quốc hiện đã thọc rất sâu vào lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có ngành chăn nuôi, TACN. Hiện, danh thiếp Cty trong lĩnh vực nông nghiệp của Trung Quốc có mặt ở Việt Nam rất đông, và gần như thống trị. Ngay cả Cty CP cũng thuộc về Trung Quốc.
Trong khi đó, trong lĩnh vực thịt lợn Cty CP xâm chiếm đến 50%, gà công nghiệp xâm chiếm gần như 80%, thức ăn xâm chiếm trên dưới 20%. Do phục dịch hết các trang trại chăn nuôi bị DN ngoại khống chế ở lĩnh vực thức ăn nên đến một lúc nào đó, sợ rằng người Việt Nam không có thịt mà ăn.
“Trung Quốc có lúc mua chớ chi rất cao, chúng ta bán hết cho họ. Có lúc gia tộc làm cho ế ẩm. Họ thao túng cả hai, người sinh sản và người tiêu dùng. Thực tế, nhiều lúc người chăn nuôi được bán giá như cao, nhưng chẳng được bao nhiêu. Còn người tiêu dùng lại mất rất nhiều, do sau đó gia tộc bơm sản phẩm Trung Quốc sang. Khi họ mua chớ chi thấp, thì nông dân mình chết”, ông Thành nói.
Bỏ hoang vùng nguyên liệu?
Dù là nước nông nghiệp nhưng đến nay, sau nhiều lần dự thảo, xây dựng đề án, gần như chưa có một khoảnh đất nào được quy hoạch dành để trồng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Việt Nam.
Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội TACN Việt Nam cho rằng, nguyên liệu chừng TACN trong nước thiếu là bởi chưng sai lầm trong hoạch định chiến lược phát triển chăn nuôi Việt Nam, không đề cập đến vấn đề thức ăn. Trong khi đó, quỹ đất cho chăn nuôi cũng không có vậy làm sao có thể nói đến việc phát triển chăn nuôi bền vững cũng như có lương bổng thực để phát triển ngành.
“Người ta tiền nghĩ đến việc sử dụng thức ăn tận dụng là sai lầm về mặt chiến lược. Đây là một điểm đặc biệt. Và chưa có nước nào làm như thế”- ông Lịch nhấn mạnh.
Theo GS - Viện sỹ Trần Đình Long, Chủ viên tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, nước ta có hơn 1 triệu ha trồng ngô, nhưng năng suất đồng cân trên dưới 4,3 tấn/ha. Năng suất thấp, tổ chức sinh sản kém cho nên giá thành cao.
Lý bởi này xuất hành do quy hoạch không chuẩn xác, tổ chức sản xuất kém, chính sách đầu tư chưa đến nơi đến chốn. Giống ngô của Việt Nam cũng có giống đạt 7-8 tấn/ha, thậm chí hơn, nhưng vùng quy hoạch chưa chính thị xác, thành thử năng suất thấp.
Ngay với đậu tương, một năm Việt Nam có khoảng 200 nghìn ha, năng suất khoảng 1,5 tấn/ha. Việt Nam cũng có trạng thái trồng đậu nành vào vụ đông, hè, vụ xuân và có thể trồng xen với các loại cây khác huyễn hoặc luân canh.
Nhưng người ta vẫn xem đậu tương như một đứa con nuôi, là một cây trồng phụ và không có vùng quy hoạch cho nó. Ở đồng bằng sông Hồng, cốt tử là trồng vụ đậu nành vào mùa đông, và cũng chỉ là trồng thêm.
Như vậy, vấn đề chính, không phải Việt Nam không có giống đậu nành để trồng, mà vì chưng tổ chức sản xuất kém, không có chương trình ưu tiên, ưu đãi cho ngô cũng như đậu tương. Vì vậy, vấn đề đậu tương, ngô cứ nói đi, nói lại, chưa dẫn giải quyết được. Hơn nữa, mặc dù là nước nông nghiệp nhưng Việt Nam chưa có đề tài, dự án nào mang tầm chiến lược quốc gia hay đầu tư đích đáng về trồng đậu tương. Đây là khuyết điểm bởi chưng đích thị sách của nhà nước, không phải bởi giống hay kỹ thuật.
Sớm trồng ngô biến đổi gen?
Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Chăn nuôi cho biết, có mặt tích ngô của nước ta tiền khoảng 1,1 triệu ha. Tuy nhiên, hầu hết ngô đều bởi vì dân tự trồng, và gần như diện điển tích đất trồng ngô không thể tăng lên được. Muốn tăng phải xén vào đất lúa. Cùng đó, muốn đẩy năng suất lên cao thì phải thay đổi giống.
Hiện Bộ NN&PTNT đang trình Chính phủ xin chuyển trên 110 nghìn ha lúa kém hiệu quả ở bình nguyên sông Cửu Long sang cây trồng khác hiệu quả hơn. Đến năm 2020, dự kiến 300 nghìn ha trên cả nước và chia ra ở các vùng, và trong đó ngô, đậu, cỏ, thậm chí cả thủy sản đều nhìn vào số phận diện điển tích chuyển đổi đó.
Tuy nhiên, ông Tống Xuân Chinh lo ngại, nếu chuyển đổi khoảng 20% diện điển tích đang trồng ngô thường, sang giống ngô biến chuyển gen, lượng vốn đầu tư ban sơ vào hạt giống rất lớn, vì chưng phải mua giống từ danh thiếp Cty đa quốc gia.
“Như vậy, người dân rất khó trong việc tiếp cận nguồn vốn để đầu tư. Ví dụ, cấy 1 ha lúa đồng cân cần vài trăm ngàn đồng cân giống, nhưng trồng 1 ha ngô biến đổi gen phải đầu tư vài trăm triệu. Chính vì chưng thế, dù ngô chuyển biến gen cho năng suất cao nhưng dân cày cũng chưa thể làm ngay được”- ông Chinh phân tích.
Vấn đề khác, theo GS Viện sĩ Trần Đình Long, khoa học thì chỉ đưa ra giống mới, kỹ thuật. Còn tổ chức nông dân làm như thế nào thì phải toàn diện, chứ làm một hai sào đậu nành thì không ai làm, người ta đi nhặt đồng nát còn lãi hơn. Nhưng vấn đề mỗi năm bỏ hoang hàng trăm ha đậu tương đông và phải trộm cắp hàng tỷ USD để nhập cảng TACN lại là chuyện khác.
“Có thể nhìn neo người giản thế này, nhà máy của DN FDI, phần nhà xưởng to, văn phòng nhỏ, còn DN nội ngược lại, văn phòng to, nhà máy nhỏ. Tổng giám đốc của gia tộc đi xe chưa đến tỷ, mình đi xe 3-5 tỷ đồng. DN ngoại chưa làm nhà máy, gia tộc đã đi bán quy hàng rồi, còn mình làm xong nhà máy thì mới chạy đi bán hàng. Cái này, DN nội phải tự vươn lên thôi, không có cách nào bằng việc đi văn bằng đôi chân của mình”.
Ông Phạm Đức Bình, Chủ viên tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Cty CP Thanh Bình
Theo Phạm Anh